Việt Nam là một đất nước có truyền thống lịch sử lâu đời, trải qua hàng ngàn năm phát triển đấu tranh giữ nước và dựng nước. Lịch sử gắn với nhiều giai thoại, nhiều câu chuyện từ thời sơ khai cho đến hiện tại. Hãy cùng Moretravel tìm hiểu những câu chuyện lịch sử Việt Nam hay nhất qua từng thời kỳ nhé

Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn. Ông là con trai thứ của An Sinh vương Trần Liễu và là cháu gọi Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông) là chú ruột. Sử sách không ghi lại năm sinh của Trần Quốc Tuấn. Một số sử gia, sau khi đối chiếu nhiều sách vở, nhiều sự kiện, cho rằng Trần Quốc Tuấn sinh vào khoảng 1229-1230. Như vậy, khi ông ra đời, nhà Trần đã nắm ngôi báu được mấy năm.

Trần Hưng Đạo

Ông nội của Trần Hưng Đạo là Trần Thừa. Cuối thời Lý, nhờ công phò giúp lúc nội biến, từ một gia đình đời đời làm nghề đánh cá ở Tức Mặc (Nam Định), Trần Thừa trở thành quan Nội thị Phán thủ. Khi Trần Cảnh lên làm vua, Trần Thừa được tôn là Thái Tổ mặc dù chưa làm vua ngày nào. Trong số 6 người con(*) của Thái Tổ Trần Thừa, thì Trần Liễu là con trưởng. Như vậy, về thế thứ, Trần Quốc Tuấn thuộc dòng trưởng trong hoàng tộc nhà Trần.

Năm Trần Quốc Tuấn khoảng 5-6 tuổi, hoàng tộc nhà Trần xảy ra biến cố lớn. Do bị Thái sư Trần Thủ Độ buộc phải nhường vợ là công chúa Thuận Thiên đang có mang ba tháng cho em trai là vua Trần Thái Tông(*), cha Quốc Tuấn là Trần Liễu làm loạn chống lại vua và triều đình. Dù anh em đã hòa giải, nhưng từ đó, giữa hai gia đình có sự rạn nứt sâu sắc khó hàn gắn được.

Quốc Tuấn được cô ruột là Thụy Bà công chúa nhận làm con nuôi. Tuy còn nhỏ, nhưng Quốc Tuấn đã tỏ ra thông minh nhanh lẹ. Thấy con sáng dạ, Trần Liễu không tiếc tiền của công sức, mời thầy giáo có tiếng tăm khắp nơi về dạy dỗ với mong muốn Quốc Tuấn trở thành người tài giỏi để giúp ông rửa hận xưa.

Trần Quốc Tuấn học một biết mười, có năng khiếu cả về văn chương lẫn võ nghệ, 7 tuổi đã biết làm thơ, lớn lên cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi. Với tài thao lược, ông chú tâm nghiên cứu binh pháp của người xưa, nghiên cứu những trận đánh nổi tiếng của những anh hùng dân tộc mà sử sách đã lưu truyền, rút ra cái hay
cái dở và tự phô diễn trận đồ rất linh hoạt. Năm 21 tuổi, Trần Quốc Tuấn nên duyên với công chúa Thiên Thành(*) và sinh hạ tất cả 5 người con, 1 gái 4 trai(**). Các con của ông sau này đều là người thành đạt. Người con gái cả là Trinh công chúa, sau là hoàng hậu của vua Nhân Tông, vị vua sát cánh cùng Trần Quốc Tuấn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Con trai bà chính là Thái tử Trần Thuyên, tức vua Trần Anh Tông

Bốn người con trai của Trần Quốc Tuấn là Hưng Vũ vương Trần Quốc Hiển, Hưng Trí vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, Hưng Hiến vương Trần Quốc Uy đều là những võ tướng có tài, đã giúp ông rất nhiều trong
công cuộc đánh Nguyên. Trần Quốc Hiển sau này là phò mã của vua Thánh
Tông, còn Trần Quốc Tảng có con gái là hoàng hậu của vua Anh Tông. Riêng Trần Quốc Nghiễn còn có công khẩn hoang, biến vùng đất hoang vu ở Hải Dương thành những cánh đồng phì nhiêu, xanh tốt.

Năm 1251, Trần Liễu, cha của Quốc Tuấn lâm bệnh nặng. Trước khi qua đời, Trần Liễu cầm tay Quốc Tuấn trăng trối: – Con hãy vì cha mà lấy thiên hạ (ý nói cướp ngôi vua) nếu không cha nằm dưới đất cũng không sao nhắm mắt được.

Biết lâu nay cha vẫn không quên oán hận cũ, Quốc Tuấn rất thương cha. Là người con có hiếu, ông không khỏi suy nghĩ về di huấn của người. Nhưng vua Thái Tông thật sự là một minh quân, ngài chấn hưng đất nước khiến thiên hạ thái bình, lại đối xử với anh em trong họ thân ái, độ lượng, Quốc Tuấn rất kính phục. Ông không thể vì những lời nói của cha mà gây cảnh nồi da xáo thịt. Nghĩ vậy, ông giữ kín những lời trối của cha không cho ai biết.

Là bà con gần với vua, nên Trần Quốc Tuấn được phong tước Hưng Đạo vương. Vì vậy, ông thường được gọi là Trần Hưng Đạo. Ông được phong thái ấp ở vùng Vạn Kiếp (Vạn Yên, Chí Linh, Hải Dương). Đây là nơi có núi cao rừng rậm, lại gần nơi hội tụ của 6 con sông(*) cùng đổ ra biển (Lục Đầu) nên vị trí rất hiểm yếu.

Bằng con mắt của một nhà quân sự, lại biết nhìn xa trông rộng, Trần Hưng Đạo đã cho xây dựng Vạn Kiếp thành một chốt cứ điểm lợi hại, có thể phòng chống giặc phương Bắc bằng cả hai mặt thủy bộ. Ở đây, ông còn xây dựng một khu vực trồng cây thuốc nam để trị bệnh cho quân lính và dân trong vùng. Nơi trồng thuốc của ông đến nay vẫn mang tên là ngọn Dược Sơn.

Phủ đệ của Trần Hưng Đạo luôn mở rộng cửa để đón bậc anh tài. Những người có chí, có nhân hoặc dũng lược mà trung tín, dù xuất thân nghèo khổ, ông đều giúp đỡ trau dồi tài năng rồi tiến cử cho triều đình thu dụng. Nhiều danh nhân thời ấy như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão đều là môn khách (khách được nuôi ăn và ưu đãi trong nhà) của ông.

Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, chào đời năm Canh Thân (1380) tại kinh thành Thăng Long. Cha ông là Nguyễn Ứng Long người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau dời về làng Nhị Khê (tức làng Ngọc Ổi cũ), huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội). Thời trai trẻ, Nguyễn Ứng Long nổi tiếng là hay chữ nhưng vì nhà nghèo nên phải đi làm gia sư.

Nguyễn Trãi

Mẹ của Nguyễn Trãi là Trần Thị Thái, con gái yêu của quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán (1326-1390), thuộc dòng dõi của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Nhờ có công phò giúp Trần Nghệ Tông đánh kẻ tiếm ngôi là Nhật Lễ nên Trần Nguyên Đán được phong làm Tể tướng. Ông làm quan trải bốn đời vua là Trần Dụ Tông (1341-1369), Trần Nghệ Tông (1370-1372), Trần Duệ Tông (1372-1377) và Trần Phế Đế (1377-1388).

Trần Nguyên Đán còn là nhà thiên văn và lịch pháp nổi tiếng của nước ta đời Trần. Ông là tác giả của bộ Bách thế thông khảo và nhiều trước tác quan trọng khác. Khác với nhiều người thời đó, Trần Nguyên Đán muốn các con gái của ông cũng được học hành văn chương chữ nghĩa như con trai. Vì thế, khi nghe tin đồn về tài năng của Nguyễn Ứng Long, ông đã sai người đón về dạy cho con gái ông là Trần Thị Thái. Thầy đồ vừa trẻ vừa có tài, học trò vừa thông minh lại xinh đẹp, nên thầy trò rất tương đắc.

Chẳng bao lâu, tình yêu giữa họ nảy nở và Trần Thị Thái mang thai. Họ vô cùng lo lắng vì biết mình không chỉ làm trái những điều lễ giáo cho phép mà còn phạm vào điều cấm kỵ, bởi triều đình lúc đó không cho phép con cái nhà quý tộc kết hôn với con nhà thường dân. Trong khi đó, Trần Thị Thái lại là con nhà đại quý tộc, còn Nguyễn Ứng Long dẫu tài giỏi bao nhiêu cũng chỉ là một thầy đồ, địa vị xã hội thua kém hẳn. Sợ người yêu bị cha trừng phạt, Trần Thị Thái đã giúp Ứng Long tìm đường chạy trốn.

Không ngờ, khi biết chuyện, thấy Ứng Long là người có tài và đôi trẻ thương yêu nhau thực lòng, Trần Nguyên Đán không những không giận mà còn tác hợp cho hai người nên vợ nên chồng. Ông chỉ yêu cầu Nguyễn Ứng Long phải cố gắng học hành để đỗ đạt. Cảm động trước thái độ bao dung và tin cậy ấy, Nguyễn Ứng Long ngày đêm dùi mài kinh sử, quyết đỗ đại khoa để trả nghĩa cho nhạc phụ.

Quả nhiên, khoa thi Giáp Dần (1374), Nguyễn Ứng Long đỗ Thái học sinh. Rất tiếc là lúc bấy giờ, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho rằng ông là con nhà thường dân mà dám cả gan lấy con gái nhà tôn thất nên không cho ông làm quan. Bởi lẽ này, Nguyễn Ứng Long bỏ về quê mình là làng Nhị Khê để mở trường dạy học. Học trò nghe tiếng ông theo về ngày một đông.

Kết duyên cùng Nguyễn Ứng Long, Trần Thị Thái đã sinh hạ tất cả năm người con trai. Nguyễn Trãi là con đầu, kế đến là Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng. Khi cha về dạy học ở làng Nhị Khê, Nguyễn Trãi vẫn ở lại tư dinh của ông ngoại cùng mẹ và các em của mình

Tháng bảy năm Ất Sửu (1385), Trần Nguyên Đán xin về trí sĩ và được triều đình nhà Trần chấp thuận. Ông dọn về ở hẳn tại Côn Sơn, dựng động Thanh Hư và bia đá. Vua Trần Duệ Tông ngự bút đề tặng ba chữ Thanh Hư động, còn Thượng hoàng Trần Nghệ Tông thì viết bài minh khắc vào bia.

Bấy giờ, Nguyễn Trãi cùng mẹ và các em của mình cũng theo ông ngoại về Côn Sơn. Tại đây, Nguyễn Trãi bắt đầu được đi học. Và người thầy đầu tiên của ông chính là mẹ ông, bà Trần Thị Thái. Nhưng tiếc là chưa được bao lâu thì mẹ ông lâm bệnh nặng qua đời. Ông và các em phải sống dựa vào ông ngoại.

Người thầy giáo quan trọng thứ hai của Nguyễn Trãi chính là ông ngoại của ông, nhà bác học, quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán. Đến năm 1390, Trần Nguyên Đán qua đời. Bấy giờ, Nguyễn Trãi và các em của ông mới chuyển về ở hẳn với cha tại làng Nhị Khê. Lúc này, Nguyễn Ứng Long trực tiếp dạy dỗ và kèm cặp các con mình.

Sinh ra trong một gia đình đặc biệt như vậy, lại may mắn có trí thông minh bẩm sinh, Nguyễn Trãi học hành tấn tới rất nhanh. Khoa Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên năm thứ nhất (tức là năm 1400 dưới triều Hồ), Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh(*).

Nguyễn Trãi cùng với cha là Nguyễn Ứng Long (lúc này đã đổi tên là Nguyễn Phi Khanh) cùng ra làm quan cho nhà Hồ. Nguyễn Phi Khanh được trao chức Hàn lâm Học sĩ kiêm Quốc Tử Giám Tu nghiệp và được phong hàm Đại lý Tự khanh. Đó là
những chức hàm quan trọng dành cho hàng quan văn xuất thân từ khoa bảng. Lần đầu tiên sau 26 năm đỗ đạt, Nguyễn Phi Khanh mới được trao quan chức.

Nguyễn Trãi cũng được trao chức Ngự sử đài Chánh chưởng. Với chức vị này, Nguyễn Trãi có nhiệm vụ can gián bá quan và triều đình, thậm chí can gián cả nhà vua khi xét thấy cần. Chức này, nếu không phải là bậc đại trí, vừa trung thực và thẳng thắn lại vừa khôn khéo và kiên quyết thì khó mà làm được.

Không thấy sử chép gì về quá trình làm quan này của Nguyễn Trãi, có lẽ vì triều Hồ tồn tại quá ngắn (chưa đầy 7 năm, từ đầu năm 1400 đến giữa năm 1407). Tuy nhiên, căn cứ vào câu Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo: “Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà…” (Nhân họ Hồ chính sự phiền hà), chúng ta có thể đoán là ông không bằng lòng với nhiều chính sách của nhà Hồ.

Cuối năm 1406, nhà Minh mượn danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để xua quân xâm lược nước ta. Sau sáu tháng cầm cự một cách lúng túng và kém hiệu quả, toàn bộ lực lượng kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo đã bị tan rã. Tháng 5 năm Đinh Hợi (tức tháng 6 năm 1407), hầu hết vua quan nhà Hồ, từ Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương đến tổng chỉ huy quân đội là Hồ Nguyên Trừng cùng đông đảo văn thần và võ tướng đều bị bắt và bị giải sang Trung Quốc.

Bấy giờ, thân phụ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh cũng ở trong số đó, nhưng không rõ vì sao Nguyễn Trãi lại không bị chúng bắt ngay. Một số thư tịch cổ cho biết rằng được tin ấy, Nguyễn Trãi cùng các em bám theo xe tù, tìm cách đi theo sang Trung Quốc để mong được phụng dưỡng cha già.

Tới ải Nam Quan, nhân lúc lính áp giải nghỉ ngơi, Nguyễn Trãi cùng các em đến tận xe tù nói rõ ước nguyện của mình với cha. Nguyễn Phi Khanh nghiêm mặt nói: “Nay là lúc nước mất nhà tan, đạo làm tôi phải lấy việc rửa nhục cho nước làm trung, đạo làm con phải lấy việc trả thù cho cha làm hiếu, có đâu lại cứ đi theo mà khóc như đàn bà con gái thì mới là hiếu là trung!”.

Nhận ra những ý nghĩa rất sâu sắc hàm chứa trong câu nói của cha, Nguyễn Trãi đã quay lại. Và đó cũng là lần gặp gỡ cuối cùng của Nguyễn Trãi đối với người cha, cũng là người thầy của ông; nhưng câu nói của cha đã in dấu sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Trãi và có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời của ông sau này. Từ đây, những ngày Nguyễn Trãi trăn trở nghĩ kế “rửa nhục cho nước, trả thù cho cha” bắt đầu.

Nhưng trên đường quay trở lại, Nguyễn Trãi không may bị giặc phát hiện và bắt đem về Đông Quan. Tướng tổng chỉ huy quân Minh lúc đó là Trương Phụ biết Nguyễn Trãi là một trí thức tài ba nên đã dùng đủ mọi cách để dụ dỗ, mua chuộc, hy vọng ông sẽ cộng tác với chúng. Nhưng trước sau Nguyễn Trãi vẫn một mực chối từ.

Trương Phụ tức giận sai quân đem Nguyễn Trãi đi chém đầu. Nhưng ngay lúc ấy, quan Thượng thư của giặc là Hoàng Phúc liền ngăn lại. Hắn cho rằng dụ dỗ một người như Nguyễn Trãi thì không thể ngày một ngày hai được. Vì thế, Trương Phụ không chém Nguyễn Trãi, nhưng đem ông giam lỏng trong một ngôi nhà nhỏ trong thành Đông Quan.

Kẻ thù rất gian ngoan nhưng chúng đã lầm. Nơi bị giam lỏng cũng là nơi Nguyễn Trãi ngày đêm suy tính kế sách cứu nước cứu nhà. Ông tìm cách liên lạc với phong trào khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược đang bùng nổ dữ dội ở khắp nơi. Và cuối cùng, ông quyết định cùng với người anh em họ là Trần Nguyên Hãn, bí mật trốn khỏi Đông Quan, tìm vào Lam Sơn với Lê Lợi.

Sử sách cũ không nói rõ Nguyễn Trãi đã thoát khỏi Đông Quan bằng cách nào và vào thời điểm cụ thể nào. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, Nguyễn Trãi đã có mặt ở Lam Sơn trước năm 1416, tức là trước khi Lê Lợi tổ chức hội thề Lũng Nhai. Đến với Lê Lợi và các nghĩa sĩ Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã mang theo một công trình rất có giá trị, đó là cuốn Bình Ngô sách tổng kết tất cả những sách lược đánh giặc Ngô mà có lẽ ông đã suy ngẫm suốt những năm bị giam lỏng ở kinh thành.

Trải qua bao phen binh lửa, Bình Ngô sách nay không còn nữa, nhưng nhiều thư tịch cổ của các bậc tiền bối đã viết những lời rất trang trọng về tác phẩm hết sức đặc biệt này. Có thể nói, Bình Ngô sách đã đặt nền tảng tư tưởng cho toàn bộ quá trình hình thành, phát triển và thắng lợi vẻ vang của phong trào Lam Sơn. Ngay từ đầu, Bình Ngô sách đã góp phần định hướng rõ rệt cho Lam Sơn là phải từ cuộc khởi nghĩa vũ trang phát triển thành chiến tranh giải phóng trên quy mô cả nước.

Cuộc gặp gỡ giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi quả đúng là anh hùng tương ngộ. Từ đó, Lê Lợi luôn cùng Nguyễn Trãi bàn bạc kế sách. Đáp lại, Nguyễn Trãi cũng một lòng trung thành với Lê Lợi và sự nghiệp cứu nước của các nghĩa sĩ Lam Sơn. Trong suốt cuộc kháng chiến, những ý tưởng sắc sảo của Nguyễn Trãi luôn được sự ủng hộ của Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn nên đã đem lại những kết quả tốt đẹp.

Ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1416), Lê Lợi long trọng tổ chức hội thề Lũng Nhai. Về thực chất, đây chính là buổi lễ ra mắt dưới một dạng thức đặc biệt của Bộ chỉ huy Lam Sơn. Nguyễn Trãi tham dự và trở thành mưu sĩ số một của Lê Lợi. Từ đây, với cương vị mới mẻ này, Nguyễn Trãi đã dốc hết tâm lực vào cuộc khởi nghĩa.

Trong suốt quá trình tham gia khởi nghĩa, Nguyễn Trãi là người có công khai sinh ra một loạt những tư tưởng chiến lược lớn của Lam Sơn, đồng thời cũng là người trực tiếp chỉ huy thực hiện xuất sắc tất cả các tư tưởng chiến lược ấy. Ở một chừng mực nhất định nào đó, chúng ta có thể nói, Nguyễn Trãi chính là linh hồn của nghĩa quân Lam Sơn.

Không chỉ có những tư tưởng lớn vượt lên trên thời đại của mình, Nguyễn Trãi còn có những tài năng đặc biệt về quân sự. Ngoài việc vạch đường đi nước bước cho nghĩa quân trong Bình Ngô sách; khi lâm trận, ông đã chủ động, linh hoạt tấn công giặc đồng loạt trên nhiều mặt trận: vũ trang, binh vận, ngoại giao… Chính cuộc tấn công liên tục và đồng loạt này đã khiến giặc Minh bị động đối phó một cách lúng túng để rồi cuối cùng phải đành cam chịu thất bại.

Ngay sau ngày toàn thắng, được sự ủy thác của Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã viết bài Bình Ngô đại cáo. Đó thực sự là một tuyệt tác văn học, đồng thời cũng là một văn kiện chính trị có ý nghĩa thiêng liêng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai(*) của nước nhà. Áng thiên cổ hùng văn này đã đưa Nguyễn Trãi vào hàng những tác gia kiệt xuất, góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến của dân tộc ta.

Nhờ liên tục có những cống hiến to lớn như thế, sau khi đánh đuổi được quân Minh và giải phóng đất nước, khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế và định công ban thưởng cho bá quan văn võ, Nguyễn Trãi được mang quốc tính là họ Lê, tước Á hầu, chức Hành khiển, quyền đứng đầu ban văn. Ông là một trong số 93 người được vinh dự khắc tên vào biển Khai Quốc Công Thần của triều Lê.

Theo các tài liệu về khoa cử nước ta còn ghi lại, từ khoa thi đầu tiên (1075) đến khoa thi cuối cùng (1919), các triều đại nước ta đã lấy đỗ tất cả 2896 vị Phó bảng trở lên. Trong đó, chỉ tính riêng thời Lê sơ đã có 1005 người đỗ từ Tiến sĩ trở lên (thời này chưa có học vị Phó bảng). Con số này tương đương với số người đỗ đại khoa dưới thời nhà Mạc (1527-1592) và thời Nguyễn (1802-1945) cộng lại: 1026 người

Ông Nghè Ông Cống

Ngày xưa, nói tới trường học trước hết và chủ yếu là nói tới trường tư. Một viên quan về hưu mở trường dạy học ngay tại tư dinh của mình. Một người nổi danh hay chữ nhưng chưa đỗ đạt, mở trường dạy học để vừa kiếm sống, vừa chuẩn bị cho ngày đi thi. Và một nhà giàu đi đón người hay chữ về dạy cho con em của mình… Trường học ra đời một cách tự nhiên như vậy.

Có những vùng hầu như chẳng một ai hay chữ và cũng không hề có người nào nổi danh tài học từ nơi khác đến trú ngụ. Con em những gia đình khá giả của vùng ấy phải lặn lội đến miền xa xôi để tìm thầy mà học. Người xưa thường gọi hiện tượng này là “tầm sư học đạo”. Thành tài thật không phải là chuyện dễ dàng.

Muốn nhập học trước hết phải trình lễ với thầy. Lễ ấy gồm hai phần không thể thiếu. Một là lễ vật. Phần này tùy khả năng, miễn sao tỏ được lòng thành của mình. Hai là lễ nghi. Phần này luôn được tiến hành với thái độ thực sự cung kính. Cách thi lễ phổ biến thời ấy là chắp tay xá thầy hoặc là lạy thầy.

Người xưa dựa vào độ tuổi để chia học trò thành hai nhóm khác nhau. Từ khoảng 8 đến 15 tuổi gọi là tiểu tử. Từ 15 tuổi trở lên gọi là đại nhân. Tuy nhiên, sự phân chia ấy chỉ có ý nghĩa hết sức tương đối mà thôi. Dưới 15 tuổi mà giỏi vẫn có thể học chung với lớp của đại nhân, ngược lại, trên 15 tuổi mà mới nhập học thì vẫn phải học chung với lớp của tiểu tử.

Lớp tiểu tử trước hết là học chữ, học sao để có thể đọc thông, viết thạo và hiểu nghĩa một khối lượng từ vựng nhất định. Sau mới học đến phép đối, bắt đầu là đối chữ, kế là đối ý rồi đối câu. Cuối cùng, họ đã có thể tập diễn đạt được các ý tưởng của mình bằng những đoạn văn chữ Hán ngắn gọn.

Lớp đại nhân là lớp học ở bậc cao. Họ được trang bị kiến thức về các thể văn, được học các tác phẩm kinh điển của Nho học như Ngũ kinh (kinh Thư, kinh Thi, kinh Lễ, kinh Dịch và kinh Xuân Thu), Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử), Bắc sử (sử Trung Quốc), Bách gia chư tử (sách của các nhà nổi tiếng ở Trung Quốc thời cổ đại)…

Cũng trong lớp đại nhân, những người thông thạo kinh sách, ứng đối trôi chảy, nắm vững các thể văn và điển tích… thường được dự các lớp giảng tập đặc biệt. Đó chính là cơ hội để họ thử tài và làm quen dần với văn chương khoa cử. Ở một chừng mực nhất định nào đó, có thể ví các lớp giảng tập với các lớp luyện thi ngày nay.

Học trò của bất cứ lớp nào cũng đều là nam giới. Người xưa cho rằng việc học là việc riêng của đàn ông con trai. Việc của đàn bà con gái là chợ búa, bếp núc và quán xuyến mọi sự trong nhà ngoài ruộng. Chỉ một số rất ít con gái của các nhà quyền quý và những gia đình khá giả mới có thể được học chữ nhưng cũng chỉ học trong một giới hạn nhất định nào đó và chắc chắn là không được đi thi.

Nội dung được học đầu tiên và nhiều nhất trong mọi nhà trường là học lễ: lễ giao tiếp trong gia đình, họ hàng và bè bạn; lễ trong mối quan hệ với thầy học và quan trên; lễ đối với người trong khắp thiên hạ và cả với muôn đấng thần thánh linh thiêng. Việc học này để tạo thói quen ứng xử có phép tắc trong cuộc sống, đó là cơ sở đầu tiên của đạo đức con người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà có câu rằng: Tiên học lễ, hậu học văn.

Để quản lý lớp học và để tạo mối quan hệ thuận tiện giữa thầy và trò, thầy giáo thường chọn một học trò tin cậy nào đó mà giao cho chức Trưởng tràng. Đại để, chức Trưởng tràng cũng tương tự như chức Trưởng lớp ngày nay. Lớp học xưa thường không đông, nhưng không phải vì thế mà Trưởng tràng được nhàn rỗi.

Việc học là việc rất tốn kém, vì thế, con nhà nghèo hầu như chẳng mấy ai dám mơ được đến lớp để học. Họ chỉ có thể nấp ở bên ngoài nghe lén để học lỏm mà thôi. Nhưng nếu là người có chí thì học lỏm cũng vẫn thành công. Trong khi đó, con em những gia đình khá giả, nếu không có ý chí bền bỉ, nếu không chịu khổ chịu kham, cũng khó có thể theo học được lâu. Xưa, có không ít người phải dở dang việc học là vì vậy.

Số người đi học đã ít mà số người có khả năng theo học đến cùng lại càng ít hơn, do vậy nhà nước thời Lê sơ (và cả các nhà nước trước đó) đã mạnh dạn miễn sưu dịch cùng một số khoản đóng góp khác cho học trò. Và để thực sự động viên sĩ tử, thi thoảng các vua Lê lại ban chiếu khuyến học. Trong xã hội, hai tiếng học trò cũng được trân trọng chẳng khác gì tên gọi của một dạng chức sắc.

Bởi học tập là một quá trình lâu dài và tốn kém, không ít học trò lớp trên đã cưới vợ ngay khi còn đi học. Ở thời việc học được đề cao, các cô gái sẵn sàng chấp nhận khó khăn để được làm vợ một người có học. Bởi thế, ca dao có câu: Chẳng tham ruộng cả ao liền. Chỉ ham cái bút, cái nghiên anh đồ.

Trong nhiều trường hợp, cả gia đình và họ hàng nhà gái cũng sẵn sàng góp công góp của cho việc học của chàng rể. Ai cũng lấy làm hãnh diện nếu con em mình giàu chữ hơn người. Học trò đi học không phải chỉ là học cho riêng họ, mà còn học cho tất cả những ai đã tận tâm lo lắng và hào phóng giúp đỡ cho họ.

Sau quá trình học tập, các học trò chuẩn bị để đi thi. Lúc này, họ không còn là học trò nữa mà được gọi chung là những sĩ tử (như bây giờ ta gọi là các thí sinh). Trước khi đi thi, bất cứ sĩ tử nào cũng phải viết tờ cung khai tam đại (nghĩa là khai lý lịch ba đời). Tờ khai đó phải tuyệt đối trung thực. Về sau, giả sử có ai phát hiện ra sự gian dối thì kẻ khai man sẽ bị nghiêm trị. Nếu đã đỗ đạt và đã được bổ làm quan thì học vị ấy vẫn bị hủy bỏ, chức quan ấy vẫn bị thải hồi.

Căn cứ vào tờ cung khai tam đại (và một vài căn cứ khác nữa), triều đình sẽ loại khỏi danh sách sĩ tử dự thi là con em của những kẻ phản nghịch hoặc là con em của những người làm nghề thấp hèn. Con em của những kẻ phản nghịch không được dự thi, tuy có khe khắt nhưng xem ra cũng là điều tương đối bình thường ở thời phong kiến.

Con em những người làm các nghề bị coi là thấp hèn mà không được dự thi thì là điều đáng tiếc bởi trong số đó có nhiều người thực sự tài giỏi. Trong những nghề bị coi là thấp hèn, có nghề hát xướng. Bấy giờ, người nghệ sĩ bị coi là kẻ mua vui cho thiên hạ, là xướng ca vô loài mà thôi. Đây là một trong những điểm khác hẳn giữa quan niệm của người xưa với quan niệm của chúng ta hiện nay.

Có tờ cung khai tam đại rồi, sĩ tử còn phải có thêm tờ bảo kết hương thí. Tờ này do chức sắc địa phương làm, theo đó thì chức sắc địa phương phải bảo đảm và cam kết sẽ chịu trách nhiệm trước phép nước về tư cách và phẩm chất đạo đức của các sĩ tử và gia đình của họ ở địa phương mình.

Cửa ải quan trọng thứ ba mà mọi sĩ tử phải vượt qua trước khi tới trường thi, đó là cuộc sơ tuyển ở cấp phủ hoặc cấp huyện (tùy từng địa phương). Tại đây, các quan địa phương sẽ lấy đề thi của trường Hương các khoa trước cho sĩ tử làm thử, nếu thấy có khả năng làm được mới cho dự các khoa thi do triều đình mở.

Thực ra, việc thi cử bắt đầu có từ năm 1075 dưới thời vua Lý Nhân Tông và được duy trì suốt cả các triều Lý – Trần sau đó. Nhưng sang thời Lê sơ mới có những quy định rõ ràng và cụ thể. Có ba khoa thi gồm hai khoa chính là thi Hương và thi Hội, còn một khoa phụ là thi Đình hay còn gọi là thi Điện. Học trò phải đậu được khoa thi Hương mới được đi thi Hội và đậu khoa thi Hội mới vào khoa thi Đình. Khó khăn của các khoa thi được người xưa ví như cá chép phải trải ba lần vượt thác ở Vũ Môn để được hóa rồng.

Khoa thi Hương đầu tiên trong lịch sử thi cử Nho học ở nước ta được tổ chức vào năm Bính Thân, niên hiệu Hưng Long thứ tư (1296), thời vua Trần Anh Tông (1293-1329). Trải hơn trăm năm, đến thời Lê sơ, thi Hương đã trở nên rất quen thuộc đối với sĩ tử nước ta, chỉ tiếc là sử sách không cho biết rõ bấy giờ nước ta có tất cả bao nhiêu trường thi Hương.

Thời vua Lê Thái Tổ (1429-1433), cứ đúng lệ ba năm triều đình tổ chức một khoa thi Hương và ngay sau đó là thi Hội. Nhưng, thời Lê Thái Tông (1433-1442) và Lê Nhân Tông (1442-1459) thì phải đến sáu năm mới có một khoa thi. Tới thời Lê Thánh Tông (1460-1497), chẳng những lệ thi Hương ba năm một lần được phục hồi mà số người lấy đỗ trong mỗi khoa cũng rất đông.

Hai tiếng trường thi dễ khiến cho người đời sau ngỡ rằng đó là một nơi có sẵn nhà cửa và phòng ốc, nhưng sự thực lại không phải vậy. Bấy giờ, người ta chọn sẵn một khu đất rộng mà bằng phẳng để đến kỳ thì tổ chức thi. Chung quanh khu đất ấy thường có cả nhà trọ và quán xá để sĩ tử có thể thuê mà ăn nghỉ trong suốt thời gian đi thi.

Khi có khoa thi toàn bộ khu đất ấy được rào kín, chỉ chừa bốn hoặc cũng có khi là tám cửa ra vào. Đất trong trường thi được chia thành từng khoảnh gọi là vi, thường mỗi trường thi có bốn vi như vậy. Ở giữa, người ta dựng lên một vài căn nhà lá dùng cho quan coi thi và chấm thi ở tạm. Mọi thứ cần dùng đều được chuẩn bị và để sẵn ở trong đó để phục vụ cho các vị quan này trong suốt thời gian ở trường thi.

Trước ngày thi, sĩ tử được gọi tên để vào nhận chỗ trong từng vi và ngay sau khi nhận chỗ, họ phải đem lều đến dựng. Lều ấy có lẽ thường làm bằng những tấm cót để mang đi cho nhẹ. Nó có tác dụng che mưa, che nắng, che gió và cả để che những cặp mắt ưa nhìn bài của người khác nữa. Trong lều có một chiếc chõng nhỏ để ngồi viết cũng là để nằm nghỉ giữa giờ làm bài vì thời gian thi không phải chỉ một hai tiếng như bây giờ.

Sĩ tử dựng lều và đặt chõng xong, các quan phải cùng nhau đi kiểm tra từng lều một. Họ coi xét từng khe nhỏ trong lều và trong chõng, kiểm soát từng dấu đất để xem sĩ tử có giấu hoặc bí mật chôn tài liệu trong lều không. Việc làm cẩn thận này đã bảo đảm cho các khoa thi được tiến hành một cách rất nghiêm túc.

Bấy giờ, nếu sĩ tử nào cố ý gian lận thì chẳng những bị đuổi ra khỏi trường thi mà có khi còn bị xử tội rất nặng. Nếu quan trường không phát hiện được mà sau đó có người biết rồi tố cáo, thì chính quan trường cũng sẽ bị xử tội. Lại cũng để tránh sự thông đồng giữa quan trường với sĩ tử, việc coi thi thường chủ yếu là giao cho các võ quan. Mỗi khoa thi Hương thường kéo dài trên mười ngày, chia làm bốn đợt làm bài khác nhau, mỗi đợt như vậy gọi là một kỳ hoặc một trường. Chỉ những ai đỗ kỳ thứ nhất mới được vào thi tiếp kỳ thứ hai, chỉ những ai đỗ kỳ thứ hai mới được vào thi tiếp kỳ thứ ba và cũng chỉ những ai đỗ kỳ thứ ba mới được vào thi tiếp kỳ thứ tư. Đỗ đủ cả bốn kỳ mới thực sự là người đỗ trường Hương.

Lệ thi Hương năm Mậu Ngọ dưới thời Lê Thái Tông, niên hiệu Thiệu Bình thứ năm (1438), quy định các kỳ làm bài cụ thể như sau: kỳ thứ nhất thi Kinh nghĩa, đề thi được chọn từ các sách Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử, mỗi sách chọn một bài làm đầu đề và bài chọn làm đầu đề phải dài từ ba trăm chữ trở lên.

Kinh nghĩa là một loại cổ văn, gồm tám vế khác nhau, cũng có khi được gọi là bát cổ. Khoa cử xưa thường bắt sĩ tử dùng thể văn này để viết một bài giải nghĩa các sách kinh điển của Nho học. Để làm được một bài Kinh nghĩa, sĩ tử phải thuộc thật nhiều kinh sách và điển tích, đồng thời lại phải sử dụng thành thạo thể văn này.

Kỳ thứ hai là thi Chế, Chiếu và Biểu. Đây là ba loại văn kiện đặc biệt mà các bậc đế, vương thường vẫn ủy thác cho quan văn trong triều soạn thảo. Để có thể đảm trách công việc này, họ phải tập viết ngay khi còn là học trò. Chế và Chiếu là văn kiện do hoàng đế ban ra, còn Biểu là văn kiện của vua chư hầu dâng lên hoàng đế.

Kỳ thứ ba là thi Thơ và Phú. Hẳn nhiên, Thơ nói đến ở đây là thơ làm theo niêm luật cổ còn Phú là một thể văn cổ, nay hầu như chẳng còn ai sáng tác văn học bằng thể loại này nữa. Chúng ta chỉ có thể nhận diện thể Phú một cách dễ dàng qua kho tàng tác phẩm vãn học cổ điển của dân tộc mà thôi. Điều may mắn là kho tàng này hiện vẫn còn rất lớn.

Kỳ thứ tư là thi Văn sách. Đại để, cũng có thể tạm ví Văn sách với một bài nghị luận chính trị, được viết dưới dạng trả lời một vấn đề cụ thể của đề thi. Bấy giờ, mỗi bài Văn sách cũng có những quy định về cách viết rất riêng. Chúng ta có thể nhận biết điều này qua kho tàng văn học cổ điển như đã nói ở trên.

Tất cả những người vượt qua được bốn kỳ làm bài là những người chính thức đỗ trường Hương. Họ được ban học vị Hương cống hay Cống sĩ. Dân gian gọi họ là ông Cống. Khi yết bảng, tên tuổi của những người này được viết trên một tấm bảng riêng mà bảng ấy bao giờ cũng có hình vẽ con cọp, cho nên cũng gọi là Hổ bảng.

Xét rằng những người đi thi Hương đã đỗ được ba kỳ vào đến kỳ thứ tư mới hỏng, nếu đánh hỏng họ thì kể cũng không đang tâm, bởi vậy triều đình mới lấy đỗ vớt. Những người đỗ vớt được ban học vị Sinh đồ. Tên những người đỗ Sinh đồ được yết lên một tấm bảng riêng. Bảng ấy bao giờ cũng có vẽ hình cành mai, cho nên được gọi là Mai bảng.

Tất cả các học vị ban cho người đỗ đạt tại trường Hương, đến năm Kỷ Sửu (1829) đều được vua Minh Mạng thay đổi. Hương cống hay Cống sĩ thì đổi gọi là Cử nhân, còn Sinh đồ thì đổi gọi là Tú tài. Như vậy, Cống sĩ và Hương cống (hay Cử nhân) với Sinh đồ (hay Tú tài) là hai cấp đỗ của cùng một khoa thi chứ không phải là của hai cấp đào tạo cao thấp khác nhau như hiện nay.

Người đỗ Sinh đồ (hay Tú tài) lần sau muốn đi thi nữa thì phải thi lại ở trường Hương. Nếu không may bị hỏng ở ngay kỳ làm bài thứ nhất thì vẫn được giữ nguyên học vị Sinh đồ (hay Tú tài). Có người thi mãi mà vẫn chỉ đỗ có Sinh đồ mà thôi nên dân gian thường gọi những người ấy là Tú Kép (đỗ hai lần), Tú Đụp (đỗ ba lần), Tú Mền (đỗ bốn lần)…

Không thấy sử cũ chép thời Lê sơ ai là người đỗ Sinh đồ nhiều lần nhất, nhưng vào thời Nguyễn, người không ai có thể sánh trong lĩnh vực này là Phan Thúc Trực (1808-1852), người làng Vân Tụ, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông từng mười lần đỗ… Tú tài, vì thế dân địa phương gọi ông là Tú Mười. Vua Thiệu Trị (1841-1847) đã phải cảm phục mà đặc cách cho ông làm Cống sinh (tức là tương đương với Cử nhân). Năm 1847, ông đỗ Thám hoa. Từ đó, dân địa phương thường gọi ông là ông Thám Mười.

Thường thì ngay sau năm thi Hương là thi Hội. Khác với thi Hương, thi Hội thời Lê sơ luôn được tổ chức tại kinh thành Thăng Long. Vì thế, những ngày các Cống sĩ đi thi Hội thường được gọi là những ngày lai kinh ứng thí (đến kinh dự thi). Chịu trách nhiệm tổ chức các khoa thi Hội là bộ Lễ, do đó thi Hội cũng gọi là Lễ Vi.

Tuy tổ chức tại kinh đô Thăng Long nhưng nơi thi Hội cũng chẳng khác gì trường Hương. Cũng bãi đất trống với hàng rào bốn phía, cũng quán xá và nhà trọ chung quanh, cũng lôi thôi lều chõng… Dấu vết xưa của trường thi Hội tại kinh thành Thăng Long được lưu giữ cho đến ngày hôm nay chỉ là tên một đường
phố: phố Tràng Thi.

Thi Hội cũng gồm bốn đợt làm bài tương tự như thi Hương, chỉ có khác là đề thi khó hơn mà thôi. Thời Lê sơ, thi Hội thì chỉ có đỗ hoặc hỏng chứ không hề có chuyện đỗ vớt như thi Hương. Tất cả những người đỗ thi Hội đều được gọi là trúng cách và ngay sau đó, họ phải dự một khoa thi phụ để xác định thứ bậc cao thấp.

Sau khi đỗ hai khoa thi chính thức là thi Hương và thi Hội, sĩ tử được vào dự một khoa thi phụ. Khoa này gọi là Đình thí (thi Đình) hay Điện thí (thi Điện). Sở dĩ gọi là thi Đình hay thi Điện, vì khoa thi phụ này được tổ chức ngay tại sân điện của nhà vua. Người trực tiếp ra đề và lấy đỗ thường cũng chính là nhà vua.

Trong trường hợp vua còn nhỏ tuổi, chưa đủ khả năng để đảm trách công việc thì các bậc từng đỗ đại khoa đang là thầy của vua sẽ được ủy thác làm công việc này. Thời Lê sơ, vị vua tự đảm trách công việc này nhiều lần nhất là vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Trong 38 năm ở ngôi, nhà vua đã cho tổ chức 12 khoa thi, lấy đậu 500 Tiến sĩ.

Tên tuổi của những người đỗ thi Hội và thi Đình được yết trên một tấm bảng rất đặc biệt. Bảng ấy bao giờ cũng có màu vàng nên người đời vẫn nhân đó mà gọi là Kim bảng (bảng vàng). Thực ra, bảng ấy chỉ có màu vàng chứ không phải làm bằng vàng, nhưng người đời vì muốn tôn vinh mà gọi như vậy.

Đệ nhất giáp chỉ ghi tên của ba người là Đệ nhất danh (đỗ đầu) được ban học vị Trạng nguyên, Đệ nhị danh (đỗ thứ hai) được ban học vị Bảng nhãn và Đệ tam danh (đỗ thứ ba) được ban học vị Thám hoa. Tất cả ba người có tên trong Đệ nhất giáp được gọi chung là tam khôi (ba người đỗ cao nhất). Đệ nhị giáp ghi bên trái của bảng, người đứng đầu (đỗ thứ tư) được ban học vị Hoàng giáp. Sau Hoàng giáp là các Tiến sĩ xuất thân. Đệ tam giáp ghi bên phải của bảng và tất cả những người có tên ở đây đều được gọi là Đồng Tiến sĩ xuất thân. Trong dân gian, tất cả những người từ Đệ tam giáp trở lên đều được gọi chung là ông Nghè.

Tất cả những người đỗ đại khoa đều được vua ban cho áo mũ. Đó là sắc phục dành riêng cho các vị Tiến sĩ. Sau khi nhận áo mũ, họ được phép vào để lạy tạ ơn vua, đồng thời được vua ban yến tiệc. Và cũng trong nhiều trường hợp, các vị Tân khoa Tiến sĩ còn được phép đi xem vườn thượng uyển của nhà vua trong hoàng cung.

Một trong những nghi thức quan trọng nhất chính là lệ vinh quy bái tổ (nghĩa là vinh dự trở về bái lạy tổ tiên). Bản thân tên gọi của lệ này đã là rất đặc biệt. Càng có vinh quang lớn trong khoa cử thì càng phải biết chân thành bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên và gia đình mình. Lệ này khiến cho ai có muốn quên đạo lý cũng chẳng thể nào quên được.

Nhà Lê đến đời Lê Thánh Tông đã đạt đến đỉnh cao thịnh trị. Dưới sự trị vì của ông, vị vua anh minh bậc nhất trong lịch sử Đại Việt, nước ta đã có bước phát triển toàn diện, từ việc tổ chức nhà nước, xã hội cho đến việc chăm lo đời sống của nhân dân. Bản thân nhà vua cũng cảm thấy yên tâm khi ông nghĩ mình có tới 14 con trai, không sợ thiếu người nối dõi. Ông thường mãn nguyện nói với các quan: “Trẫm có lắm con trai, cơ nghiệp sau này vững bền không phải lo gì nữa.” Không ít người hùa theo tán tụng, riêng Lương Thế Vinh lấy làm lo cho vua, ông thẳng thắn tâu bày: “Lắm con trai chỉ là đầu mối của loạn lạc.” Nhà vua có ý không bằng lòng, nhưng nể Lương là người tài, nói thẳng, nên không phạt tội. Ông chỉ quở trách: “Trạng Lường tính toán như thần, nhưng lần này khanh lầm rồi. Xưa nay người ta chỉ thấy không có con nối dõi thì mất cơ nghiệp, làm gì có chuyện ngược đời như khanh nói!”

Tiên tri của Trạng Lường

Thế rồi, theo quy luật tự nhiên, cả Lương Thế Vinh và Lê Thánh Tông lần lượt qua đời. Lương Thế Vinh mất trước, nhà vua vô cùng thương tiếc, làm bài thơ khóc Trạng, trong đó có câu: “Danh lạ còn truyền để quốc gia”. Một năm sau, đến lượt Lê Thánh Tông ra đi, nhưng xem ra ông không được hưởng cái chết tự nhiên như Trạng Lường. Nguyên Lê Thánh Tông có nhiều vợ. Hoàng hậu là bà Trường Lạc Nguyễn Thị Hằng vốn bị vua xa lánh lâu ngày, nên nuôi lòng oán hận. Năm 1497, khi Lê Thánh Tông bị bệnh phù thũng, bà lấy cớ vào thăm bệnh vua, rồi ngầm bôi thuốc độc vào tay xoa lên những chỗ loét của ông. Do đó bệnh vua càng nặng thêm và chẳng bao lâu sau thì mất. Hoàng thái tử Lê Tranh, con trưởng của Lê Thánh Tông với Hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng lên nối ngôi, tức Lê Hiến Tông, vị vua thứ sáu nhà Hậu Lê. Là con trưởng, lên ngôi khi tuổi đã chín (vừa tròn ba giáp), bản thân cũng là người thông minh, nhân hậu, ở ông hội tụ đủ các yếu tố khiến cho việc làm vua diễn ra suôn sẻ. Ông luôn tâm niệm Lê Thái Tổ đã gây dựng nên cơ đồ, vua cha đã sắp đặt mọi việc đâu ra đấy, đến lượt mình chỉ nên lo giữ gìn nếp cũ, đặng làm sáng rõ công đức của ông cha. Trong những năm ông trị vì, đất nước yên ổn, không có loạn lạc. Nhà vua chú trọng chăm sóc bảo vệ đê điều, khai sông, đắp đường; khuyến khích nông dân làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm; ngăn ngừa tệ quan liêu, nhũng nhiễu chốn quan trường… Có thể nói, bảy năm dưới thời Lê Hiến Tông mọi việc vẫn y theo đời Hồng Đức, khác chăng người đứng đầu triều chính không có được tầm vóc như đức vua Lê Thánh Tông.

Năm 1504, Lê Hiến Tông mất do bệnh nặng. Hoàng thái tử Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông, vị vua thứ bảy của triều Lê. Cũng giống như vua cha, Lê Túc Tông là người hiền hòa, được sử cũ miêu tả là vị hoàng đế có tính cách “vui điều thiện”. (Ông nguyên là con trai thứ ba, nhưng do chăm ngoan, hiếu học, nên được vua cha phong làm Hoàng thái tử kế vị.) Không lâu sau khi lên nối ngôi, ông đã làm được nhiều việc tốt, như phóng thích phi tần, giảm bớt sức lao động của nhân dân, giữ vững nền quân chủ, kỉ cương khiến người dân được sống thanh bình… Nhưng thật không may, cho ông cũng như cho vương triều, Lê Túc Tông lên ngôi khi 16 tuổi, ở ngôi mới được nửa năm thì bị bệnh nặng mất. Do chưa có con, nên ông chỉ định người anh em cùng cha khác mẹ là Lê Tuấn lên ngôi. Di chiếu của ông có viết về việc này như sau: “Bệnh trẫm chưa khỏi, lo rằng việc phó thác nặng nề e sẽ không kham nổi. Con thứ hai của Tiên hoàng đế là Tuấn, là người hiền minh, nhân hiếu, có thể nối được ngôi chính thống, để thừa kế tổ tông, vỗ về thần dân.”

Thực hiện di chiếu của vua, đầu năm 1505 hoàng tử Lê Tuấn được đưa lên ngôi, trở thành vị vua thứ tám của nhà Hậu Lê. Song Lê Tuấn không phải là người “hiền minh, nhân hiếu” như Túc Tông trông đợi, mà ngược lại, là một ông vua hoang dâm tàn bạo khét tiếng trong lịch sử Đại Việt. Đó chính là Lê Uy Mục, hay Quỷ Vương, như dân gian vẫn gọi.

Việc Lê Tuấn lên làm vua không chỉ là một trang sử buồn của đất nước, mà còn mở đầu cho sự suy vong của nhà Hậu Lê. Từ đây cho đến khi nhà Lê mất về tay nhà Mạc còn 22 năm nữa, nhưng đó là 22 năm kéo dài trong loạn lạc của một vương triều đã bị tha hóa từ những năm trị vì của vua Uy Mục. Đồng thời, đây cũng là minh chứng cho lời tiên đoán ngày nào của Trạng Lường Lương Thế Vinh: “Lắm con trai chỉ là đầu mối của loạn lạc”!

Mặc dù đã có di chiếu của Túc Tông đưa người con thứ hai của Hiến Tông là hoàng tử Lê Tuấn lên kế vị, Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng vẫn kịch liệt phản đối. Lí do bà đưa ra là Tuấn xuất thân hèn kém, không được giáo dục tử tế, không có tư chất của bậc vương giả, nên không thể lên ngôi thiên tử. Nguyên mẹ của Lê Tuấn là Nguyễn Thị Cận vốn mồ côi cha từ nhỏ, nhà lại nghèo khó nên phải tự bán mình cho một viên quan ở Đông Đô. Người này sau phạm tội nên Nguyễn Thị Cận bị triều đình bắt vào làm nô tì trong Cấm thành. Bấy giờ đang là đời vua Lê Thánh Tông, Hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng bị vua ghẻ lạnh, phải ở cung riêng Vĩnh Ninh. Nguyễn Thị Cận được đưa vào hầu Hoàng hậu ở đó. Vua Hiến Tông, khi ấy đang là Thái tử vào thăm mẹ, thấy người nữ tì xinh đẹp liền đem lòng yêu mến ngay từ “cái nhìn đầu tiên”. Sau ông lấy Nguyễn Thị Cận làm thiếp, có với nàng một người con, đó chính là hoàng tử Lê Tuấn. Nguyễn Thị Cận sớm qua đời với thân phận thê thiếp, vì thế nên Tuấn bị bà nội tìm cách gạt bỏ sau khi Hiến Tông băng hà. Song triều đình vẫn tuân theo di chiếu của tiên vương. Ngày 22 tháng 1 năm 1505, Lê Tuấn lên ngôi, tức Lê Uy Mục, vua thứ tám của nhà Hậu Lê.

Quỷ vương Lê Uy Mục

Một trong những việc làm đầu tiên của tân vương 17 tuổi là giết hại chính bà nội mình, Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng: Tháng 3 năm 1505, ngay khi chưa ấm chỗ trên ngai vàng, Uy Mục cho quân đến cung của bà nội giết chết bà. Đồng thời sai giết hai đại thần là Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ và Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, vì lẽ các ông này đã theo ý Hoàng thái hậu không muốn đưa Uy Mục lên làm vua.

Máu hiếu sát của vua lộ rõ từ đấy. Ông thích xem người ta đánh giết nhau, nên thường tổ chức các cuộc tỉ thí của quân cấm vệ, hay giữa người hai bên ti Ngự Mã và Ngự Tượng, đến khi có người chết mới thôi. Đêm đêm, vua cho gọi các cung nhân, phi tần vào bày trò tiêu khiển, uống rượu say rồi hành lạc ngay tại chỗ, đến khi tan cuộc mây mưa thì đem giết đi.
Để thỏa mãn thói rông càn, ăn chơi vô độ, Lê Uy Mục dựa vào bọn nịnh thần, tin dùng đám ngoại thích, đồng thời xua đuổi người trong tôn thất và công thần về xứ Thanh (đất phát tích của nhà Lê) cho rảnh mắt. Ông ta còn bí mật sai người trong cung dò xét hết thảy anh em, chú bác, ai có biểu hiện hay chỉ cần bị vu cho là chống đối lập tức bị bắt giam, tra khảo.
Sự trác táng của Lê Uy Mục hiện ngay trên mặt. Sử chép rằng, trong lần sang sứ nước ta, phó sứ thần Trung Quốc là Hứa Thiên Tích trông thấy Uy Mục, đã làm bài thơ có câu như sau:

An Nam tứ bách vận vưu trường
Thiên ý như hà giáng quỷ vương?(1)
Từ đó, “Vua Quỷ” hay “Quỷ Vương” trở thành tên gọi Lê Uy Mục!

Tức nước vỡ bờ, sự tàn bạo của vua Uy Mục đã gây một làn sóng bất bình trong dân chúng, quan lại, và nhất là các tôn thất họ Lê bị bạc đãi, hay người nhà của những người bị hãm hại. Trong số các nạn nhân của Lê Uy Mục có cả vợ con của Kiến Vương. Ông là con thứ năm của Lê Thánh Tông, đồng thời là bác ruột của vua, vậy mà vợ và các con trai ông cũng bị bắt: người con trưởng là Cẩm Giang Vương Lê Sùng, người con thứ là Giản Tu Công Lê Oanh. Người con thứ khôn khéo đút tiền cho người canh ngục nên được ra, trốn về Tây Đô (Thanh Hóa). Ở đây, Lê Oanh được một công thần thất sủng là Nguyễn Văn Lang lập làm minh chủ, phất cờ chống lại Lê Uy Mục. Tháng 11 năm 1509, Lê Oanh, khi ấy mới 14 tuổi, đưa quân về Đông Đô, đánh chiếm kinh thành. Vua Uy Mục liền trả thù bằng cách giết Lê Sùng và bà mẹ. Tháng Chạp năm Kỉ Tị (1509), Lê Oanh vào được kinh thành, bắt Lê Uy Mục và bức vua tự tử.

Giết được Lê Uy Mục, Lê Oanh vẫn chưa nguôi giận việc vua giết hại mẹ và anh mình. Ông sai lấy súng lớn, nhồi thuốc vào, để xác Uy Mục lên trên rồi đem bắn cho tan xác. Đó là việc làm của Lê Oanh trước khi tự lập làm vua, tức Lê Tương Dực, vị vua thứ chín nhà Hậu Lê. Cũng như người tiền nhiệm, ông được sứ Tàu đặt cho một cái tên, sau trở nên quen thuộc trong dân gian và cả trong sử sách: Vua Lợn!

Cuối thời Lê Sơ, triều đình mở khoa thi Võ. Hôm ấy, bà Từ Thục, con quan Thượng thư họ Nhữ cũng đi xem. Giữa những đô vật bốn phương về tụ hội, bà tình cờ gặp một chàng trai đánh cá tuổi vừa đôi mươi ở huyện Nghi Dương lên ứng thí. Đó là một người cao lớn, mặt vuông, mắt tròn, tiếng nói trầm hùng, ăn mặc rách rưới nhưng có phong độ đàng hoàng, đĩnh đạc. Vừa làm quen nhau sau dăm ba câu chào hỏi, nàng Từ Thục cất lời tự trách, tiếng than như phát ra tự đáy lòng: “Lúc trước chẳng gặp nhau, nay đến đây làm gì!” Bởi bà đã thấy được ở chàng trai ấy có khí tượng đế vương, sau này ngôi vua ắt về tay chàng.
Bà Từ Thục từ thời trẻ đã tinh thông lí số, có tài tiên đoán tương lai. Bà biết rằng khí số nhà Lê đã đến ngày suy và một bậc đế vương sẽ xuất hiện. Sinh ra trong gia đình quyền quý, lại có khát vọng lớn, bà hi vọng sẽ lấy được một người làm vua hoặc chí ít cũng sinh được con có khí thiên tử. Kén chọn mãi bà mới lấy Nghiêm Quận công Văn Đình. Nhưng sau khi lấy nhau, bà mới biết mình nhầm, vì với người ấy giỏi lắm chỉ có thể sinh con đến bậc Trạng nguyên. Thế nên bà càng tiếc khi gặp gỡ chàng trai kia…
Chàng trai ấy chính là Mặc Đăng Dung!

Mạc Đăng Dung làm nghề đánh cá tại làng chài Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Chàng có sức khỏe lạ thường, bơi lội như con cá kình, chèo lái thuyền băng băng cả khi ngược gió. Chàng lại là hậu duệ bảy đời của vị Trạng nguyên hiển hách Mạc Đĩnh Chi, nhưng nhà thì rất nghèo. Ngay từ thuở còn để chỏm, Đăng Dung thường được nghe cha kể về sự tích cụ Trạng. Cụ Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên năm Giáp Thìn (1304), làm quan thanh liêm, được thăng tới chức cực phẩm. Cụ được cử sang sứ nhà Nguyên, nhờ tài đối đáp và văn thơ uyên bác đã giữ được uy phong cho đất nước, làm rạng danh kẻ sĩ Đại Việt. Vua Nguyên phong cho là Trạng nguyên, vì vậy cụ trở thành “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Lần giở lên xa hơn, cụ viễn tổ 16 đời là Mạc Hiển Tích đỗ đầu khoa văn học thủ
tuyển năm Bính Dần (1086) đời vua Lí Nhân Tông. Cụ cũng được coi là Trạng nguyên, mặc dù thời bấy giờ chưa có danh vị này. Cụ được tin dùng, làm quan đến chức Thượng thư…

Mạc Đăng Dung

Vốn dòng dõi trâm anh thế phiệt, nhưng sau đận nhà Minh sang xâm chiếm nước ta, con cháu mấy đời nay đều lâm vào cảnh nghèo, phải bôn ba về xứ Hải Dương làm nghề chài lưới. Cha mẹ luôn nhắc nhở Đăng Dung phải cố theo gót các bậc tiên hiền để làm nên nghiệp lớn. Nhưng bấy giờ triều Lê đã suy tàn, giặc giã nổi lên khắp nơi, triều đình không trọng văn nữa. Đăng Dung cũng như nhiều kẻ sĩ khác muốn tiến thân phải theo đường võ nghiệp.

Mạc Đăng Dung còn trẻ, nhưng đã là một đô vật nổi danh khắp xứ Đông. Ở đâu có đấu vật chàng đều đến ghi danh lên sới để thử sức và học hỏi. Năm ấy chàng lên kinh thi. Ở môn đấu vật, Đăng Dung lần lượt hạ các đô vật đến từ các lò vật nổi tiếng trong nước, từ Phong Châu phía Bắc đến Thức Vụ xứ Nam. Sau khi chàng hạ đô vật Mai Động, lò vật lừng lẫy ở kinh thành, trống trường thi giục đến ba hồi vẫn không có ai lên thượng đài đấu với chàng nữa. Mạc Đăng Dung được xướng loa trúng Đô lực sĩ Võ Trạng nguyên.
Trong tiếng reo hò dậy đất, chàng xin biểu diễn múa đao, môn sở trường. Ánh đao loang loáng, tiếng xé gió vù vù, bụi đất cuồn cuộn bốc lên. Chiếc đại đao dài 2,5 mét, nặng 25 cân trong tay chàng nhẹ như món đồ chơi trong tay trẻ nhỏ. Ai cũng thán phục sức khỏe kinh người và tài võ nghệ của vị tân Trạng nguyên.

Thế rồi Đăng Dung được sung vào đội quân Túc vệ, khởi sự là một viên võ quan cấp thấp: cầm lọng che theo xe vua Uy Mục! Chiếc lọng ấy khá nặng, không phải võ sĩ nào cũng cầm được. Ngoài ra Đăng Dung còn được giao nhiệm vụ “chấp kích lang”: vác kích theo bảo vệ vua.

Trải qua ba đời vua, từ một quan võ cấp thấp, nhờ tài trí, mưu lược, năm 25 tuổi Mạc Đăng Dung được phong Đô chỉ huy sứ đứng đầu quân Túc vệ. Năm 28 tuổi được tấn phong tước Vũ Xuyên bá. Năm 33 tuổi được cử đi trấn thủ Sơn Nam, và đến năm 35 tuổi được thăng Đề đốc, tước Vũ Xuyên Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng ngày nay). Do công đánh dẹp cuộc nổi loạn của Lê Do, chiêu hàng Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc nên năm 1519, khi 36 tuổi ông được phong tước Minh Quận công, rồi được giao Tiết chế các doanh thuỷ lục quân 13 đạo, thống lĩnh toàn bộ quân đội trong nước. Đến năm 40 tuổi, Mạc Đăng Dung lên tới chức cực phẩm khi ông được phong tước Thái sư An Hưng Vương. Chức trọng, quyền cao, lại là người đầy tham vọng, Đăng Dung không thể không mưu tính việc tiếm đoạt, khi trong tay phụ chính của ông lần lượt là những ông vua nhà Lê trẻ người non dạ, không có tài cán, đức độ lại càng không có chút thực quyền.

Cuối cùng cái gì phải đến đã đến. Năm 1527 Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê, xưng vua, lập nên triều đại nhà Mạc ở nước ta. Bà Từ Thục quả đã không nhầm người.

Triều Lê đổ nát, không thể là nơi thi thố tài năng giúp dân cứu nước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua sáu kì đại khoa liền. Đến khi nhà Mạc lên thay, ông vẫn nghe ngóng, và tiếp tục… chờ xem. Mãi đến khoa thi thứ ba, năm Ất Mùi (1535), ông mới quyết định lên kinh ứng thí. Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ ngay Trạng nguyên. Năm ấy, ông đã 44 tuổi.

Thượng hoàng Mạc Đăng Dung và vua Mạc Đăng Doanh đều rất trọng vọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông được bổ làm Đông các Hiệu thư, Tả thị lang bộ Hình, kiêm Đông các Đại học sĩ. Năm 1540, sự qua đời đột ngột của Mạc Đăng Doanh đã kết thúc giai đoạn thịnh trị nhất dưới triều Mạc, khiến cho mong muốn thực hiện hoài bão trị quốc của Nguyễn Bỉnh Khiêm mất đi một chỗ dựa. Mạc Phúc Hải lên ngôi, tin dùng bọn gian thần khiến Mạc triều bắt đầu suy vi. Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ đòi trị tội 18 tên lộng thần (trong đó có Phạm Quỳnh, Phạm Giao là thông gia và con rể ông), song nhà vua không đếm xỉa đến. Nguyễn Bỉnh Khiêm thác bệnh, xin về trí sĩ tại quê nhà. Tuy vậy, vì trách nhiệm của kẻ sĩ, ông lại ra tham chính khi được gọi trở lại triều đình…

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trải qua các đời Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp với các chức Tả thị lang, Thượng thư bộ Lại, Thái phó, Trình Tuyền hầu rồi Trình Quốc công, nên người ta thường gọi ông là Trạng Trình. Tuy không ở hẳn kinh đô, nhưng suốt gần hai mươi năm ông vẫn thường xuyên đi lại, cáng đáng nhiều việc triều chính, được các vua Mạc tôn kính như bậc quân sư. Mãi đến năm 73 tuổi, ông mới thực sự treo ấn từ quan.

Về quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại, xây chùa và mở trường dạy học. Thiên hạ tôn ông là Tuyết Giang phu tử, coi ông như bậc thầy “thượng thông thiên văn, hạ tri địa lí, trung tri nhân sự” (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lí, ở giữa hiểu con người). Học trò ông có nhiều người như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ… là những danh sĩ đương thời. Là người có nhãn quan chính trị bao quát và đúng đắn, dường như ông thấy trước được thế sự sẽ diễn biến ra sao, nên chẳng những nhà Mạc, mà cả nhà Lê Trung hưng, nhà Nguyễn cũng thường tìm đến, hỏi về những việc hệ trọng.

Bàn cờ thế sự Nguyễn Bỉnh Khiêm

Là nhà văn hóa, nhà tư tưởng lớn, bao trùm cả một thời đại kéo dài suốt ba thế kỉ, Nguyễn Bỉnh Khiểm để lại hai tác phẩm lớn là Bạch Vân am thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi. Bạch Vân am thi tập là một tập thơ bằng chữ Hán, mà theo lời Tựa của tác giả “cả thảy một ngàn bài”. Mặc dù các văn bản hiện hành chỉ lưu giữ được sáu, bảy trăm bài, nhưng với con số đó, ông là tác gia có số lượng thơ chữ Hán nhiều nhất trong văn học Việt Nam suốt bốn thế kỉ qua. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu suy tư, triết lí, phản ảnh nỗi băn khoăn, niềm khát vọng của cả một tầng lớp nho sĩ đương thời, muốn lí giải những biến đổi về thời cuộc và tìm kiếm phương hướng, vận hội cho xã hội, đúc rút những bài học cho mình và cho đời. Đó là tiếng nói của một nho sĩ nhập thế, hành đạo, tự thấy có nghĩa vụ trước đất nước và triều Mạc mà ông hết lòng phục vụ.

Trong khi khẳng định lẽ “biến dịch” như một tất yếu đối với mọi sự, ông lên án gay gắt những kẻ đắc thời, đắc thế và tin tưởng sự thịnh trị sẽ được lập lại. Để thích nghi với sự biến đổi, ông chủ trương sống theo lẽ tự nhiên, không bon chen danh lợi, lấy nhàn tâm, dưỡng tính, an nhiên tự tại làm thái độ ứng xử:

“Đêm đợi trăng cài bóng trúc, ngày chờ gió thổi tin hoa” hoặc
“Vườn rau sáng dạo, sương vương dép, bến cá đêm về, trăng đầy thuyền”.

Đó là thái độ sống của một người trong môi trường ô trọc mà vẫn giữ được
thanh danh, tâm hồn không bị vẩn đục. Một tác giả đương thời là Vũ Khâm Lân nhận xét, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống ẩn dật “mà lòng không ngày nào quên đời, ưu thời mẫn tục đều lộ trong thơ”. Chính nhờ đó mà ông đã có được nhận thức:

“Sức dân như nước…, phải dùng chữ “nhân” để kết mối vững bền”.

Nhà nghiên cứu Trần Khuê đưa ra một hình ảnh thú vị: “Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ cửa Khổng, ông đi ngang qua sân nhà Lão Tử, rồi dừng lại trước cửa Thiền suy ngẫm về giáo lí và đạo lí, cuối cùng ông đã trở về với đồng ruộng và lũy tre xanh của làng quê Việt Nam, hay nói khác đi, ông đã trở về với dân tộc.”

Bạch Vân quốc ngữ thi là một tập thơ chữ Nôm, người đời sau khắc ván in, tập hợp thơ của cả những tác giả khác nên khó phân biệt. Từ những bài thơ được các nhà nghiên cứu khẳng định là của Nguyễn Bỉnh Khiêm (khoảng 140 bài), có thể thấy ông đã kế thừa truyền thống thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Việt hóa nhiều điển cố, từ ngữ Hán học, dùng lời lẽ của giới bình dân. Thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa hàm súc, điêu luyện, vừađậm đà phong vị dân gian. Nó mang tính luân lí sâu sắc, dạy đạo lí làm người một cách đơn giản. Vận dụng lời ăn tiếng nói của dân gian một cách tự nhiên, nhiều câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm như đã thành cách ngôn, tục ngữ.

Bên cạnh một Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà tư tưởng, nhà hiền triết, nhà thơ lớn còn tồn tại một Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà tiên tri, dường như biết trước cả những việc sẽ xảy ra 500 năm sau. Lưu truyền nhiều nhất là những giai thoại liên quan đến “bàn cờ thế sự” cả một thời trung đại. Được Nguyễn Hoàng cho người hỏi ý kiến khi gặp vấn đề nan giải, Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng cách nói bóng gió, bâng quơ, đã mách nước cho Nguyễn Hoàng vượt Hoành Sơn (Đèo Ngang) lập cơ nghiệp muôn đời. Cũng thế, ông mách cho Trịnh Kiểm dựa vào vua Lê mà nắm mọi việc triều chính; gợi ý cho Mạc Mậu Hợp tiếp tục vương triều thêm 80 năm ở đất Cao Bằng nhỏ hẹp… Nói cách khác, ông là một Khổng Minh – quân sư cho cả ba thế lực chính trị đương thời. Có người cho rằng ông cố ý tạo ra thế chân vạc, để các thế lực đó kiềm toả lẫn nhau ở những nơi khá cách biệt, tránh cho đất nước rơi vào thế hỗn chiến tam quốc, muôn dân tránh được cảnh đầu rơi máu chảy, nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn…

Trong dân gian còn lưu hành sấm kí Nôm thường gọi là sấm Trạng Trình, phần lớn được viết theo thể lục bát, như Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Đó là một hiện tượng đang được các nhà khoa học tìm hiểu, xác minh thêm. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp thời Lê mạt nhận định: “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa”. Tiếng tăm của ông vang sang cả Trung Quốc. Sứ giả nhà Thanh là Chu Xán sang ta, cũng viết: “An Nam lí học hữu Trình Tuyền” (ý nói ở nước Nam có Trình Tuyền hầu là người thông giỏi khoa lí số).

Năm Ất Dậu (1585) ở tuổi 95, Nguyễn Bỉnh Khiêm bị ốm nặng. Biết mình khó qua khỏi, ông dâng sớ lên vua Mạc Mậu Hợp. Trong sớ có những lời tâm huyết như sau: “Thần suy tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đã đến hồi tái tạo, ý Trời đã định, sức người khó theo. Song nhân định có thể thắng thiên, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tông, thì thần chết cũng được thỏa lòng”. Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Triều đình lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ: “Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ”. Tất cả ở Nguyễn Bỉnh Khiêm đều đạt đỉnh cao của thời đại và tỏa rạng vào tương lai. Ông để lại cho đời một bài học lớn: Người trí thức chân chính dẫu gặp khó khăn nguy khốn vẫn phải giữ vững khí tiết và niềm tin, hành động vì đại nghĩa của dân tộc. Người bạn đồng liêu là Trạng nguyên Giáp Hải từng viết về ông khi bước vào tuổi 90: “Danh quán Nho gia lôi phần địa / Lực phù nhật cốc trụ kình thiên / Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt /
Cửu lão dung nghi thế thượng nguyên” (dịch: Long bảng đứng đầu, tên sấm dậy / Chống trời cột vững, sức cường kiên / Bốn triều nghiệp lớn, tay anh kiệt / Chín chục dung nghi, dáng khách tiên).

Ngày 24 tháng Giêng năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ nhận được cấp báo của Ngô Văn Sở từ Bắc Hà cho biết, đại quân Thanh đã đột nhập Thăng Long bốn ngày trước đó. Bấy giờ Nguyễn Huệ đang đóng ở Phú Xuân, ông lập tức cho triệu các tướng soái vào thương nghị. Đất nước đang đứng trước một sự kiện trọng đại, cần phải có những quyết sách nhanh chóng. Nếu với danh nghĩa Bắc Bình Vương, ông vẫn là một tướng “ngoài cõi” có danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”. Bây giờ Lê Chiêu Thống đã lộ mặt bán nước cầu vinh, danh nghĩa ấy không còn giá trị nữa. Phải lấy nước làm trọng! Để có danh chính ngôn thuận, ngay hôm sau, Bắc Bình Vương lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung. Đứng trước 6 vạn quân sĩ uy
nghiêm tập hợp trước lễ đàn vừa được dựng ở núi Bân, Nguyễn Huệ cất tiếng sang sảng đọc Chiếu lên ngôi: “Trẫm đã dựng lại họ Lê, nhưng Lê tự quân không giữ được xã tắc, bỏ nước bôn vong. Sĩ dân Bắc Hà không còn theo về họ Lê, mà lại dựa vào trẫm.”

Với tuyên bố đó, Nguyễn Huệ đã tự đứng ra đảm nhận sứ mệnh cứu dân cứu nước. Và những tiếng reo hò vang dậy của quân sĩ và dân chúng tung hô “Vạn tuế!” chính là sự thừa nhận đầu tiên và cũng đầy sáng suốt của nhân dân đối với vị hoàng đế hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước ta.

Quang Trung để lại Huế 2 vạn quân giữ thành, chỉ mang theo 4 vạn quân ra Bắc. Từ Phú Xuân ra đến Nghệ An đường dài 300 km mà chỉ đi hết có bốn ngày! Cho đến nay, người ta vẫn không thể hiểu được bằng cách nào, chỉ với đôi chân trần đoàn quân của Nguyễn Huệ có thể hành quân thần tốc như vậy. Trần Công Sán, một cựu thần nhà Lê thì mô tả một cách chung chung: “Người Tây Sơn hành binh như bay, tiến quân rất gấp, xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp”.

Đến Thanh Hóa, trong lễ thệ sư tại Thọ Lạc, nhà vua ứng tác một bài hiểu dụ quân sĩ, kết thúc bằng những câu nôm na:

Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để răng đen
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!

Vua Quang Trung đại phá quân Thanh

Về phía quân Thanh, chúng chia làm bốn đạo tiến vào nước ta. Đạo thứ nhất do Tôn Sĩ Nghị và phó tướng là Đề đốc Hứa Thế Hanh theo đường Lạng Sơn tiến vào Thăng Long. Đạo thứ hai do Thái thú Sầm Nghi Đống chỉ huy theo đường Cao Bằng tiến xuống. Đạo thứ ba do Đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, theo ngả Tuyên Quang tràn xuống Sơn Tây. Đạo thứ tư qua vùng Vạn Ninh, Quảng Yên kéo vào chiếm đóng Hải Dương.

Quân Thanh tiến quân như vào chỗ không người. Tại Lạng Sơn, tướng giữ ải Phan Khải Đức đầu hàng giặc. Ở Thăng Long, Ngô Văn Sở thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch: Quân mình vỏn vẹn có hơn một vạn, không thể “chọi” được lực lượng hùng hậu của giặc, nên đã nghe theo lời khuyên của Ngô Thì Nhậm, lui về đóng ở Tam Điệp. Lê Chiêu Thống cùng bộ sậu lên tận Kinh Bắc đón quân Thanh rồi theo chúng vào Thăng Long.

Tôn Sĩ Nghị tỏ ra vô cùng tự đắc. Hằng ngày, Chiêu Thống phải đến chầu chực ngoài cửa để xin yết kiến nguyên soái thượng quốc, Tôn Sĩ Nghị có cho vào gặp mới được vào. Quân Thanh nghênh ngang sục sạo khắp trong thành và còn ra các vùng xung quanh cướp phá. Dân tình vô cùng căm giận giặc, ai nấy đều ngóng về phương Nam trông chờ quân Tây Sơn.

Ngày 20 tháng Chạp, đại quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp (Ninh Bình) được Ngô Văn Sở cùng các tướng sĩ ra nghênh đón. Đại tư mã Ngô Văn Sở và nội hầu Phan Văn Lân đến quỳ trước vua Quang Trung xin chịu tội chưa đánh đã lui. Quang Trung nghiêm khắc khiển trách, nhưng khen họ đã tránh được thế giặc mạnh, kịp thời rút lui để bảo toàn lực lượng và làm cho kẻ địch chủ quan. Nhà vua nói: “Đây là nước cờ hay, rất đúng ý ta. Thoạt nghe ta đã biết ngay đó là chủ mưu của Ngô Tiên sinh, quả không sai.”

Ngày 30 Tết, Quang Trung cho mở lễ khao quân. Đứng trước các tướng sĩ, nhà vua tuyên bố như đinh đóng cột:
– Hôm nay ta cùng các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã, hẹn đến ngày mùng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy!
Đúng đêm trừ tịch, trời tối đen như mực, các đạo quân được lệnh lặng lẽ xuất phát.

Đạo quân chủ lực bao gồm bộ binh, tượng binh, kị binh đánh thẳng ra phía nam thành Thăng Long. Đại tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân chỉ huy tiền quân, Hám Hổ hầu đốc thúc hậu quân. Trung quân do đích thân vua Quang Trung chỉ huy. Đô đốc Bảo, Đô đốc Long đem quân đi tắt đường núi phía tây tấn công vào ngả Chương Mĩ, Khương Thượng. Đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem thủy quân vượt biển vào sông Lục Đầu tiếp ứng phía đông Thăng Long và chặn đường rút của giặc.

Ngày Tết, quân Thanh bày trò vui chơi, rượu say túy lúy. Tôn Sĩ Nghị không thể ngờ đạo quân của Quang Trung đã mở cuộc hành công thần tốc. Khi Lê Chiêu Thống đến chúc Tết, trước vẻ lo âu của “An Nam quốc vương”, y còn huênh hoang là đến mùng 6 Tết sẽ ra quân, bắt sống Nguyễn Huệ ở Thuận Hóa.
Trong khi đó, đại quân do đích thân Quang Trung chỉ huy đã vượt đò Gián Khẩu (giáp Hà Nam). Quân Thanh và quân của Lê Chiêu Thống bị bất ngờ, sợ hãi bỏ chạy. Quân Tây Sơn đuổi theo bắt không sót một tên, không để cho kẻ nào chạy thoát về báo cho quân nhà biết.

Đêm mùng ba Tết, đại quân Tây Sơn vây kín đồn Hà Hồi trong khi quân Thanh vẫn mải mê ăn Tết. Quân ta xuất hiện bất ngờ như quân nhà trời, lại được dân chúng bện rơm đốt rồng lửa reo hò trợ giúp, toàn bộ quân giặc hoảng sợ đầu hàng, ta không tốn một viên đạn, một mũi tên.

Đồn Ngọc Hồi là vị trí tiền tiêu của giặc trấn giữ cửa ngõ Thăng Long. Đồn có quân số rất lớn, phòng thủ nghiêm ngặt dưới quyền chỉ huy của phó tướng Hứa Thế Hanh. Nghe tin Hà Hồi thất thủ, Hứa Thế Hanh dẫn đầu đội kị binh nửa đêm ra khỏi đồn chặn đánh. Ngựa giặc thấy đàn voi của ta xông trận, sợ hãi chạy trở lại vào đồn, giày xéo cả lên quân của chúng. Lúc ấy trời vừa tảng sáng, quân giặc trong đồn có hỏa lực mạnh bắn ra dữ dội, nhiều quân sĩ ta thương vong, không tiến lên được. Quang Trung sai quân lấy các mảnh ván ghép lại, bện rơm xấp nước làm khiên. Cứ 20 người mang một tấm khiên xông lên, quân giặc bắn tên đạn ra đều vô hiệu. Quang Trung đích thân cưỡi voi đốc chiến. Quân ta tiến đến sát đồn, nhất tề bỏ khiên ào tới tiêu diệt địch. Quân giặc chống cự không nổi chạy tán loạn, Hứa Thế Hanh chết trong đám loạn quân.

Quân Thanh chạy về phía Đại Áng bị cánh quân của Đô đốc Bảo chặn đánh, dồn về phía Đầm Mực, chúng bị voi giày xéo, chết như ngả rạ. Cánh quân của Đô đốc Long tiến đánh đồn Khương Thượng, quân Thanh bị chết vô kể, thây chất thành núi. Tướng tiên phong Trương Sĩ Lương và Tả dực Thượng Duy Thăng bị giết chết. Thái thú Sầm Nghi Đống bủn rủn chân tay, treo cổ tự tử trên gò Đống Đa.

Sáng mùng 5 Tết, Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị còn đang say ngủ thì tin thất trận từ các ngả dồn dập báo về, tiếng súng, tiếng voi gầm, ngựa hí vang động khắp nơi. Không kịp lấy ấn tín, Tôn Sĩ Nghị vội nhảy lên ngựa bỏ chạy, thoát được qua cầu phao bắc trên sông Hồng rồi một mình một ngựa trốn lên phương Bắc. Quân Thanh như rắn mất đầu, quân tướng các trại cũng ùa chạy theo, chen chúc tranh nhau qua cầu phao. Cầu phao bị gãy, quân giặc chết chìm dưới làn nước lạnh giá, xác lềnh bềnh cả một quãng sông.

Quân ta hùng dũng tiến vào Thăng Long giải phóng. Vua Quang Trung áo bào còn khét mùi khói súng, ngự trên bành voi dẫn đầu đoàn quân chiến thắng giữa tiếng hò reo hân hoan của dân kinh thành. Hoa đào đỏ rực phố phường đã sạch bóng quân thù. Lời hẹn của nhà vua đã ứng đúng, không những thế, còn sớm trước hai ngày.

Nhà thơ Ngô Ngọc Du mô tả cảnh tượng hôm ấy trong bài Long Thành quang phục kĩ thực:
Đầy thành già trẻ mặt như hoa
Chen vai thích cánh cùng nhau nói:
Cố đô vẫn thuộc núi sông ta.

Ngày nay, hằng năm cứ đến ngày mùng 5 Tết nhân dân Thủ đô lại tưng bừng mở hội Đống Đa để ôn lại chiến thắng vẻ vang năm xưa dưới chân tượng đài người anh hùng dân tộc Quang Trung.

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng mất. Lời trăng trối của ông với con trai gọn lại chỉ có hai việc chính: Nếu chống lại được với họ Trịnh và Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không thì giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phương Nam.

Lúc ấy, bản đồ giang sơn họ Nguyễn – được vua Lê phong là Trấn thủ Thuận Quảng – bắt đầu từ Đèo Ngang ở phía bắc đến đèo Cù Mông ở phía Nam (tức là từ địa phận Quảng Bình đến ngọn đèo cao 245 m, dài 7 km nằm giữa hai tỉnh Bình Định và Phú Yên ngày nay).

Xứ Thuận Quảng gồm Thuận Hoá và Quảng Nam, vốn thuộc vương quốc Chămpa hay còn gọi là Chiêm Thành. Từ các thời Lí, Trần, Lê, nước này hay quấy nhiễu biên giới Đại Việt, bị đánh thua phải cắt đất cầu hòa; hoặc do vua Chămpa là Chế Mân dâng đất làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân đời Trần, nên vùng đất này được sáp nhập vào Đại Việt…

Mở rộng bờ cõi phía nam

Năm 1611, chỉ hai năm trước khi mất ở tuổi 89, chúa Tiên đã đáp trả những cuộc tấn công khiêu khích của vương quốc Chămpa, lập ra phủ Phú Yên, đưa dân lưu tán đến khẩn hoang. Lên thay cha, chúa Sãi một lòng một dạ lo việc nước. Trong khi đang phải lo đối phó với Trịnh, chúa được tin viên Lưu thủ cai quản phủ Phú Yên là Văn Phong dựa vào Chămpa làm phản, thế lực rất mạnh. Phải có người tài mới dẹp được y. Chúa nghĩ ngay đến phó tướng Nguyễn Hữu Vinh còn rất trẻ, con trai danh tướng Mạc Kính Điển, đã được ông cho đổi họ. “Hổ phụ ắt sinh hổ tử”, chúa nghĩ và liền giao việc ấy cho Vinh. Chẳng những ông cho Vinh đặc quyền dùng ấn son mà còn gả con gái là Ngọc Liên cho. Được chúa tin tưởng, Nguyễn Hữu Vinh đã tốc chiến tốc thắng, chém đầu Văn Phong, đoạt lại phủ Phú Yên. Chúa đổi vùng đất này thành dinh Trấn Biên.

Mặc dù vậy, chúa vẫn chưa yên tâm. Nếu mấy nước láng giềng Chămpa, Chân Lạp cứ nhũng nhiễu thì không thể tập trung đương đầu với họ Trịnh. Vừa may, sứ giả Chân Lạp đến cầu hôn quận chúa Ngọc Vạn cho vua Chey Chetta II. Ông vua này mới lên ngôi, muốn dựa vào sức mạnh của Đàng Trong để chống lại sự xâm lược của Tiêm La (còn gọi là Xiêm La, tức Thái Lan). Thật là một dịp may hiếm có. Song Ngọc Vạn đã được hứa gả cho Trần Đình Huy, con một đại thần thân tín trong triều. Vì lợi ích quốc gia, chúa cho gọi đôi trẻ đến nói chuyện. Cả hai đã gạt bỏ tình riêng, để Ngọc Vạn lên đường theo chồng về xứ lạ. Bà hoàng hậu người Việt được vua Chân Lạp quý mến, nói gì nhà vua cũng nghe. Nhiều người Việt theo bà đến kinh đô Oudong lập nghiệp, buôn bán, mở xưởng thủ công hoặc đi sâu hơn nữa vào những vùng đồng lầy khai khẩn đất hoang.

Năm 1623, chúa Sãi yêu cầu được đặt hai trạm thu thuế ở Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé) để phát triển doanh thương. Vua Chey Chetta II đã vui vẻ nhận lời và còn khuyến khích dân Việt đến làm ăn khiến số người Việt ở đây tăng nhanh. Trong thời gian này, chúa Sãi đã hai lần giúp con rể đẩy lùi quân Tiêm La sang xâm lược. Christopher Borri, giáo sĩ người Ý truyền đạo tại Quy Nhơn, có viết trong cuốn hồi kí được xuất bản năm 1631 như sau:

“Chúa Nguyễn luôn thao luyện quân và đã từng đưa quân đội giúp vua Cao Miên. Chúa viện trợ cho vua Cao Miên thuyền bè, binh lính để chống lại vua Xiêm.”

Hoàng nữ Ngọc Hoa, người xinh đẹp nhất trong bốn cô con gái của chúa Sãi cũng không chịu thua chị kém em. Nàng tình nguyện sang Chămpa trong vai một nhà buôn lớn. Vua Po Romé nghe đồn về cô lái buôn giàu có xinh đẹp, bèn cho mời vào cung. Vừa thấy Ngọc Hoa, ông như bị hút hồn, lập tức đòi lấy làm hoàng hậu. Ngọc Hoa ở đất Chămpa hơn 20 năm, được vua yêu gọi là Bia Út. Nàng xin chồng đưa người sang lập nghiệp, giữ cho hai nước được hoà hiếu. Thật không may, năm 1653 đất nước này xảy ra nội loạn, cả vua Po Romé và hoàng hậu Ngọc Hoa đều bị giết. Được tin, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần lập tức đưa quân sang dẹp loạn. Chămpa xin hàng. Chúa Hiền cắt từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chămpa, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải có câu vịnh hai chị em Ngọc Vạn, Ngọc Hoa:

Hồng Lạc ta đâu hiếm nữ tài
Nghìn xưa Trưng Triệu đã từng oai
Noi gương Hoa, Vạn hai công chúa
Một sớm ra đi mở đất đai.

Song song với việc mở rộng lãnh thổ ở miền Trung, trong hai thế kỉ 16, 17, nhiều nhóm nhỏ di dân người Việt ở miền Bắc, miền Trung đi về phương Nam tìm đất sống. Thường họ vào theo đường biển và đường bộ, đến miền Đông Nam Bộ khai khẩn những vùng đất cao ven sông, nơi có nước ngọt hay những vùng giáp ranh con nước ngọt mặn. Một số là dân các vùng đói kém, bỏ quê hương đi tha phương cầu thực, nhưng cũng có người là tù binh trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn. (Có lần chúa Nguyễn tấn công ra Bắc, khi rút về đã bắt theo ba vạn dân Đàng Ngoài vào khẩn hoang.) Tất cả đều được chính quyền Đàng Trong tạo điều kiện cho đi khai mở những vùng đất mới. Sự việc chúa Sãi lập hai trạm thu thuế ở Sài Gòn và Bến Nghé đánh dấu việc chúa Nguyễn chính thức đặt chân tới vùng này. Đây là vùng rừng rậm hoang vắng, nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Chẳng bao lâu, vùng đất xung quanh hai trạm thu thuế đã trở thành thị tứ trên bến dưới thuyền, buôn bán tấp nập.

Những năm sau đó, ở Chân Lạp xảy ra cuộc tranh giành quyền lực liên miên. Các phe phái đánh lẫn nhau thường phải dựa vào chúa Nguyễn, và họ đều cắt đất để trả giá cho sự bảo trợ. Chúa Nguyễn cho lập các đồn binh, vừa để hỗ trợ quân sự, vừa để thực thi nhiệm vụ lập làng chia xóm, tổ chức phố chợ, thu thuế như một hình thức chính quyền bán chính thức…

Bấy giờ, người nhà Minh bên Trung Quốc bỏ nhà Thanh chạy sang ta rất nhiều. Cuối năm 1679, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cho phép các đoàn người của Trần Thượng Xuyên vào Biên Hòa, Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho. Đó là những vùng đất đã có lưu dân người Việt khai hoang lập ấp từ đầu thế kỉ 17. Mỗi đoàn Minh hương gồm nhiều ngàn người, họ lập phố xá
buôn bán, cũng làm nghề nông nhưng ít hơn làm thương nghiệp. Nông Nại đại phố (ở Biên Hòa) sớm trở thành một trung tâm thương mại có nhiều tàu ngoại quốc tìm đến. Người Minh mau chóng được Việt hóa.

Năm 1693, vua Chămpa là Bà Tranh (Po Saot) tỏ ý đối nghịch, không chịu tiến cống. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan Tổng binh Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi bắt về. Chúa đổi đất Chămpa thành Thuận Phủ (nay thuộc Bình Thuận) và giao cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ. Bốn năm sau, chúa đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành trấn và dành cho người Chăm cơ chế tự trị dưới sự bảo hộ của mình.

Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu lại sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí miền Nam. Tại những vùng lưu dân Việt Nam tự phát tới khẩn hoang lập ấp, ông chia thành nhiều đơn vị hành chính: lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay); lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (tức Sài Gòn)… Mỗi trấn có lưu thủ quản trị, dưới có cai bạ coi về ngân khố và kí lục coi về hình án. Trấn Biên bao gồm từ Bình Thuận đến Nhà Bè. Phiên Trấn từ Tân Bình đến Cần Giuộc (Long An). Phủ Gia Định ngày đó gồm từ Bình Thuận, Sài Gòn, Đồng Nai, Nhà Bè đến Long An. Địa bàn Đồng Nai, Gia Định được nới rộng thêm ra hàng ngàn dặm vuông, các chủng dân được quy tụ thành chòm xóm. Dân số có đến 40.000 hộ. Dân gốc Hoa đều nhập sổ bộ Đại Việt.

Trong số người Minh bỏ nước ra đi về phương Nam còn có một lực lượng đông đúc khác là Mạc Cửu, người gốc Quảng Đông. Ông mở rộng vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc khi đó thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được. Năm 1708, để tránh bị Xiêm La thường xuyên sang cướp phá, ông xin sáp nhập vào Đàng Trong. Chúa Nguyễn Phúc Chu đổi thành trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu làm Tổng binh, cai quản vùng đất này.

Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ (còn gọi là Mạc Thiên Tích) được
kế vị cha. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên. Trong các năm từ 1735 đến 1739, ông mở rộng đất đai sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ, sáp nhập vào trấn Hà Tiên, coi như thuộc lãnh thổ Đàng Trong.

Năm 1755, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) thông sứ với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để lập mưu đánh mình, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh đem quân sang trừng phạt. Nặc Nguyên thua phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân An và Gò Công) cho chúa Nguyễn để tạ tội. Sự tranh chấp quyền lực trong triều đình Chân Lạp diễn ra gay gắt. Các phe phái tiếp tục lấy việc cắt đất để tranh thủ sự giúp đỡ của chúa Nguyễn và Mạc Thiên Tứ, đến nỗi đất đai chẳng còn bao nhiêu. Sau này, vào đầu thế kỉ 20, khi thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, họ đã phải điều chỉnh một phần đất cho Cao Miên, một thành viên trong Liên bang.

Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các đảo và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỉ 17, Côn Đảo từ năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1711.
Công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt đã khiến cho lãnh thổ nước ta không chỉ rộng ra trên đất liền mà còn vươn xa ra biển lớn!

“Nước Nam ta sau này hay dở cũng ở chữ quốc ngữ”

Từ xưa, nước ta dùng chữ Hán làm văn tự chính thức: học hành, thi cử, viết công văn, ghi sử sách, sáng tác văn chương… đều bằng chữ Hán cả. Song một văn tự ngoại lai dù có thông dụng đến đâu cũng không thể đáp ứng yêu cầu truyền tải lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của người Việt. Chính vì vậy chữ Nôm “đọc lên thế nào hiểu thế ấy” đã ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.

Chữ Nôm là văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, cấu tạo của chữ Hán để ghi chép tiếng Việt. Như vậy, để biết chữ Nôm, nhất thiết phải giỏi chữ Hán. Chữ Nôm lại quá phức tạp, nhiều khi cùng một chữ, mỗi người viết một cách, hoặc nhìn một chữ, mỗi người đọc (và hiểu) một cách. Sự phiền phức ấy khó mà khắc phục!

Sự ra đời của chữ Quốc ngữ

Văn hoá phương Tây, trong đó có bảng chữ cái La tinh đã giúp giải quyết bế tắc đó. Nửa đầu thế kỉ 16, nước ta bắt đầu có sự tiếp xúc trực tiếp với phương Tây. Năm 1533, giáo sĩ Ignatio của đạo Cơ Đốc theo đường biển vào Đàng Ngoài, lén lút truyền đạo tại Nam Định. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong. Số người theo đạo đông dần, họ thành lập Giáo đoàn cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, trong đó Giáo đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin) do giáo sĩ Alexandre de Rhodes lập năm 1627.

Đến truyền đạo, đương nhiên họ phải học tiếng Việt và để học, họ phải ghi lại được tiếng nói của người bản xứ. Họ đã dùng chữ cái La tinh để phiên âm ngôn ngữ của người Việt. Điều này đã khiến chữ quốc ngữ ra đời. Có thể nói chữ quốc ngữ là thành quả chung của nhiều giáo sĩ đến từ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp, Hà Lan với sự hỗ trợ to lớn của rất nhiều giáo dân người Việt. Từ năm 1622, giáo sĩ Francesco Di Pina đã phát triển một hệ thống kí âm dùng chữ cái áp dụng cho ngữ âm và thanh điệu tiếng Việt, soạn một văn tuyển và viết cuốn sách ngữ pháp đầu tiên. Năm 1624, ông mở trường dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, một trong số những “học viên” đầu tiên chính là… Alexandre de Rhodes.

Dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển chữ quốc ngữ là việc xuất bản quyển Tự điển An Nam, Bồ Đào Nha, La tinh (nguyên bản Dictionarum Annamitum, Lusitanum et Latinum) do Alexandre de Rhodes biên soạn, in ở Roma năm 1651. Cũng năm ấy, ông cho in một cuốn sách nữa bằng tiếng Việt là Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức chúa Trời. Ngoài ra còn phải kể đến cuốn Tự điển Việt – Bồ của giáo sĩ Gaspar de Amaral và Tự điển Bồ – Việt của Antoine De Barbosa.

Nói đến công lao của những người đầu tiên đóng góp vào sự hình thành chữ quốc ngữ, không thể không nhắc đến Alexandre de Rhodes, một giáo sĩ dòng Tên mà trong các sách vở cũ gọi ông là A-lịch-sơn Đắc Lộ. Ông sinh năm 1593 tại Avignon, miền nam nước Pháp trong một gia đình gốc Do Thái, là một vị linh mục cường tráng và lạc quan, có kiến thức sâu rộng về thiên văn học và toán học, biết tới 13 thứ tiếng trên thế giới.

Đầu năm 1625, Alexandre cùng với bốn cha dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản cập bến Hội An, bắt đầu công việc truyền đạo của mình. Ông nhớ lại:
“Khi tôi vừa đến Đàng Trong, nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế. Hai cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francesco Di Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha kia. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt”… “Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa, chỉ trong vòng bốn tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau sáu tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt.”

Ông bắt đầu học tiếng Việt với thầy dạy là một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi và “Chỉ trong vòng ba tuần lễ, cậu bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ châu Âu, thế mà, cũng trong vòng ba tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé.”

Nói được tiếng Việt, ông đã truyền giáo dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở Đàng Trong và chúa Trịnh Tráng ở Đàng Ngoài.

Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của Alexandre de Rhodes, nhưng các hoạt động truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Năm 1651, ông cho in cuốn Tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các kí tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Sự kiện này thường được coi là đánh dấu sự ra đời chính thức của chữ Quốc ngữ. Linh mục Léopold Cadière đánh giá rất cao vốn hiểu biết tiếng An Nam sâu sắc của “cố Đắc Lộ”: “Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Kì đều không phải là bí mật đối với ông… Ông còn cho chúng ta biết về thực trạng của tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán ngày nay không còn và những thông tin mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác… Thêm nữa, về nghĩa của các từ, cuốn sách là một sự đảm bảo tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp ông thêm vào cuốn từ điển cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc đôi khi
rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam.”

Alexandre de Rhodes mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 ở Isfahan, Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam. Chữ quốc ngữ thời mới phôi thai đương nhiên rất nghèo nàn, ví dụ Tự điển của Alexandre de Rhodes chỉ có 8000 từ, cách viết cũng khác nhiều và nếu so với chữ quốc ngữ ngày nay chỉ giống 45%. Số người sử dụng cũng chỉ quanh quẩn trong phạm vi nhà thờ Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, trong 300 năm tồn tại, nó đã được cải tiến nhiều lần để hợp lí hơn, chính xác hơn.

Giới nho sĩ và quan lại xuất thân nho học ban đầu bài xích loại văn tự mới này, nhưng dần dần họ nhận ra tính ưu việt của nó nên chẳng những chấp nhận mà còn cổ vũ dân chúng học chữ quốc ngữ.

Nhưng cũng phải đến đầu thế kỉ 20, nhờ hoạt động tích cực và hiệu quả của các nhà chí sĩ, trí thức theo xu hướng canh tân đất nước, đặc biệt do tác động của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907 – 1908) và Hội Truyền bá quốc ngữ (thành lập năm 1938), chữ quốc ngữ mới được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Và từ mùa thu năm 1945, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chữ quốc ngữ đã trở thành văn tự chính thống của nước ta.

Trên đây là tổng hợp một số những câu chuyện lịch sử Việt Nam hay nhất mà Moretravel sưu tầm được hy vọng sẽ giúp bạn hiểu hơn về lịch sử Việt Nam và những câu chuyện gắn liền với những giai thoại lịch sử của đất nước ta

Nguồn sưu tập: Sử ta chuyện xưa kể lại

Bài viết liên quan

Bật mí Du lịch 1 ngày nên đi đâu gần Hà Nội

Du lịch 1 ngày nên đi đâu gần Hà Nội?. Sau một tuần làm việc...

Những mặt Tích cực và tiêu cực của ngành du lịch

Du lịch là một trong những ngành thúc đẩy nền kinh tế phát triển, mang...

Khu du lịch Đại Nam của ai? địa điểm ở đâu

Khu du lịch Đại Nam-nơi vọng ngưỡng tâm linh và tôn vinh tinh hoa dân...

Download luật du lịch 2017 PDF, Word-số 09/2017/QH14

Luật du lịch số 09/2017/QH14 được Quốc Hội Việt Nam ban hành vào ngày 19/06/2017...

Giới thiệu địa điểm du lịch bằng tiếng anh, tiếng trung

Các địa điểm du lịch Việt Nam không những nổi tiếng về danh lam thắng...

Tìm hiểu: 41 Điểm du lịch quốc gia Việt Nam

Khu du lịch quốc gia Việt Nam là một danh hiệu được Thủ tướng phê...

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *